Dòng họ Cao tại Việt Nam có một lịch sử lâu dài, với những đóng góp lớn lao vào nền văn hóa và lịch sử dân tộc. Từ thủy tổ Cao Lỗ (?-179 TCN) đến những danh nhân như Cao Quýnh, Cao Bá Quát, họ Cao đã góp phần quan trọng trong các sự kiện lịch sử, văn hóa, và khoa bảng. Trong bài viết này, hãy cùng HoCao khám phá lịch sử và những danh tướng, danh nhân của dòng họ Cao, từ thuở An Dương Vương đến những thế hệ sau này.
Cao Lỗ Vương vị thủy tổ dòng họ Cao
Cao Lỗ, hay còn gọi là Đô Lỗ, Thạch Thần, là một trong những danh tướng nổi tiếng của An Dương Vương trong lịch sử Việt Nam. Ông là người quê xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Với tài trí kiệt xuất, Cao Lỗ đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng thành Cổ Loa và bảo vệ đất nước khỏi các thế lực xâm lược.
Cao Lỗ không chỉ nổi tiếng vì là tướng quân tài ba mà còn vì sáng tạo ra nỏ liên châu, một vũ khí chiến tranh có sức mạnh vượt trội thời bấy giờ. Ông được coi là thủy tổ của dòng họ Cao, và những người trong dòng họ Cao đều coi ông là tổ tiên vĩ đại.
Lăng mộ và đền thờ Cao Lỗ hiện nay vẫn được tôn vinh tại xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh, thu hút nhiều người đến dâng hương tưởng nhớ.
Những Danh Nhân Dòng Họ Cao
Dòng họ Cao không chỉ nổi bật với tướng quân Cao Lỗ mà còn sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử, văn hóa, và khoa bảng nổi tiếng qua các thời kỳ.
Cao Quýnh (1449-1535) – Thám Hoa, Danh Nhân Văn Hóa
Cao Quýnh là một nhân vật kiệt xuất của dòng họ Cao, sinh ra tại làng Phú Trung, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông được biết đến là một người học rộng, hiểu sâu, và có nhiều đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và nông nghiệp.
Trong suốt sự nghiệp làm quan, Cao Quýnh luôn quan tâm đến công việc triều chính và đề xuất nhiều chính sách cải cách hữu ích, đặc biệt trong lĩnh vực lương thực và thủy lợi, giúp nông nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Ông là một trong những người có công lớn trong việc cải thiện đời sống của nhân dân, được đánh giá cao và tôn vinh qua các triều đại.
Đỗ Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ
Năm 1475, dưới triều đại Lê Thánh Tông, Cao Quýnh đỗ Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, đạt được danh hiệu cao quý và được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong triều đình. Ông được ghi nhận là một trong những danh nhân văn hóa thời kỳ Lê, với tài năng xuất sắc trong cả việc học và phục vụ đất nước.
Sắc Phong và Vinh Danh Từ Triều Nguyễn
Sau khi ông qua đời, vua Tự Đức đã sắc phong ông là Tuấn Lương Thần vào năm 1857, công nhận những đóng góp của Cao Quýnh đối với đất nước. Vua Thành Thái, vào năm thứ 16 (1904), cũng tiếp tục xét công trạng của ông và đã phong sắc cho ông là Trác Vĩ Dục Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần, tôn vinh sự nghiệp và đạo đức của Cao Quýnh.
Sắc phong của các vua Nguyễn đã thể hiện sự kính trọng và tri ân đối với những công lao của ông đối với đất nước. Đặc biệt, sắc phong của vua Thành Thái ghi rõ: “Sắc cho thôn Tú Mỹ, xã Hạnh Lâm, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An phụng sự Thám hoa Đông các đại học sỹ Cao tướng công tôn thần, hộ quốc giúp dân, tỏ rõ linh ứng.”
Nhà Thờ Cao Quýnh
Nhà thờ của Thám hoa Cao Quýnh hiện tọa lạc tại xóm 8, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Đây là nơi thờ cúng và ghi dấu những công lao của ông. Nhà thờ có hai tòa: hạ điện và thượng điện, với nhiều hiện vật quý giá, trong đó có long ngai bài vị mang vị hiệu: Thần tổ hội nguyên đình tứ Thám hoa Đông các đại học sỹ, cao tặng tuấn lương tước phong Trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng tối linh tôn thần. Ngoài ra, tại nhà thờ còn có các hiện vật như lọng vàng, 2 bức đại cổ sơn son thiếp vàng do hội văn huyện Diễn Châu kính tặng, 2 thẻ thượng đẳng khôi khoa, 2 hàng gươm giáo 8 ngọn, 6 cặp câu đối, và các bộ trống, chuông đồng.
Cao Quýnh không chỉ là một nhân vật lịch sử vĩ đại, mà còn là niềm tự hào của dòng họ Cao và người dân xứ Nghệ.
Cao Dương Trạc (1690-1753)
Cao Dương Trạc, người Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, là một danh nhân kiệt xuất trong lịch sử triều Lê. Theo “Cao Dương Thế Hệ Ký” và “Cao Dương Hậu Phả Tập”, ông đỗ đồng Tiến Sĩ vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) dưới triều Lê Dụ Tông (1705-1729).
Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Thượng thư Bộ Hộ, Bộ Lại, và sau đó là Bộ Binh. Đến năm 1746, triều Cảnh Hưng thứ 7, ông được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ kiêm Đông Các Đại Học Sĩ. Cao Dương Trạc cũng là một người đam mê văn học, thường được mời vào cung để bàn luận về thơ phú cùng các bậc trí thức.
Cuối đời, ông từ chức Thượng thư Bộ Lễ và đảm nhiệm vai trò Đốc đồng Thanh Hóa. Khi qua đời, ông được triều đình truy tặng hàm Thiếu bảo, ghi nhận công lao và tài năng xuất chúng.
Cao Huy Dật (1707-1749)
Cao Huy Dật, quê tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, là một nhân vật tiêu biểu của dòng họ Cao. Theo “Cao Dương Thế Hệ Ký” và “Cao Dương Hậu Phả Tập”, ông đỗ Nho sinh trúng thức và từng giữ chức Phụng Thị Văn Nội Giảng.
Là cháu ruột của Thượng thư Cao Dương Trạc, ông được người chú giao phó trọng trách biên soạn gia phả họ Cao vào năm 1747. Ông Cao Huy Dật là con trai của Tả Bình Quan Cao Đức Doanh, tiếp nối truyền thống gia đình với những đóng góp lớn trong việc bảo tồn lịch sử dòng họ.
Cao Tư (1744-1818)
Sinh năm Giáp Tý và mất năm Kỷ Mão, thọ 75 tuổi, là một vị quan võ dưới triều Lê Trung Hưng. Ông nguyên quán tại xã Hoa Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc Hà Nội). Khi qua đời, ông được phong tước Thái Bảo Thọ Quận Công – Phó Quốc. Tổ phụ của ông là Cao Thụy Tín Mỹ, người từ xã Hoa Cầu di cư vào Thanh Hóa lập nghiệp. Trong thời gian sinh sống, Cao Tư đã cho dời mộ tổ tiên Cao Thụy Tiến Mỹ từ Thanh Hóa về an táng tại thôn Công An, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), đồng thời đưa con cháu đến định cư và xây dựng nhà thờ ở đây.
Hiện tại, cuốn Cao Tộc Phả Ký được cụ Cao Thanh, trưởng chi họ Cao tại xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức (Sơn Tây xưa, nay thuộc Hà Nội), gìn giữ. Theo các tài liệu Cao Dương Thế Hệ Ký và Cao Dương Hậu Phả Tập, chi họ Cao ở Văn Giang được xác định là chi thứ, trong khi chi trưởng thuộc về họ Cao ở Sủi, Phú Thị. Cả hai chi này đều có cùng nguồn gốc từ dòng họ Cao ở Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Cao Đình Độ (1741-1810) & con trai là Cao Đình Hương
Cao Bá Quát (1809-1865)
Theo Cao Dương Thế Hệ Ký và Cao Dương Hậu Phả Tập, Cao Bá Quát sinh tại làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Ông là con trai trưởng (chi Giáp Nhất) của cụ Cao Huy Tham (1784–1850) và là em song sinh với Cao Bá Đạt (1809–1855), nguyên Tri huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông nội của Cao Bá Quát là cụ Cao Huy Thiềm (1761–1821). Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), theo hồ sơ số H62/3 Quốc Triều Hương Khoa Lục (quyển 01B, mặt khắc 77). Ông từng làm quan Giáo thụ phủ Quốc Oai nhưng sau đó cáo quan về quê để chăm sóc mẹ già ở tuổi 68 (theo Châu Bản Triều Nguyễn). Cao Bá Quát còn được biết đến là một nhà cách mạng, quốc sư của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (1854–1855) chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Cao Xuân Dục (高春育 1843-1923)
Cao Xuân Dục, tự Tử Phát, hiệu Long Cương, được biết đến với danh xưng Cổ Hoan Đông Cao. Ông quê ở thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1876, ông đỗ Cử nhân, cùng khoa với các danh nhân Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Nguyễn Đôn Tiết ở Thanh Hoá và Phan Văn Ái ở Hà Nội.
Theo gia phả, tổ tiên dòng họ Cao Xuân có thể bắt nguồn từ Cao Quýnh, một nhân vật sống vào thời vua Lê Thánh Tông. Cao Quýnh thi Hương đỗ Cử nhân năm 27 tuổi, sau đó thi Hội vào khoa Ất Mùi (1475), đỗ Hội nguyên và thi Đình đỗ Thám hoa. Ông từng làm quan đến chức Đông Các Đại Học Sĩ và được khắc tên tại Văn Miếu, Hà Nội. Từ Cao Quýnh đến Cao Xuân Dục là khoảng 13 đời.
Cao Xuân Tiếu 高春肖 (1865-1939)
Cao Xuân Tiếu (1865–1939) quê ở làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông xuất thân trong gia đình danh giá, là con trưởng của quan đại thần Cao Xuân Dục – Thượng thư bộ Học, Đông Các Đại Học Sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Cao Xuân Tiếu đỗ Cử nhân năm Tân Mão (1891), đứng thứ nhì tại trường Nghệ An, và đỗ Phó bảng vào năm Ất Mùi (1895) dưới triều Thành Thái.
Trên con đường làm quan, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ quan trọng như Án sát Quảng Nam, Bố chính Bình Định, Hà Tĩnh, Chủ khảo khoa thi Hương trường Thanh Hóa, Tham tri bộ Lễ, bộ Hộ, và dần thăng đến chức Thượng thư, Hiệp biện Đại Học Sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Sau khi về hưu, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị Nông Tín Ngân hàng miền Bắc Trung Kỳ.
Gia đình ông nổi tiếng với truyền thống học vấn và cống hiến cho văn hóa, giáo dục. Con trai ông là Giáo sư triết học Đông phương Cao Xuân Huy, trong khi cháu nội ông, Cao Xuân Hạo, là một dịch giả và nhà ngôn ngữ học danh tiếng. Cao Xuân Tiếu qua đời vào năm Kỷ Mão (1939), hưởng thọ 74 tuổi.
Cao Thắng (1864-1893)
Cao Thắng quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là một trong những trụ cột quan trọng của phong trào khởi nghĩa Phan Đình Phùng, có vai trò tổ chức, chỉ huy và rèn luyện nghĩa quân chiến đấu chống thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19.
Sinh năm Giáp Tuất (1874), khi mới 10 tuổi, Cao Thắng đã tham gia làm liên lạc cho nghĩa quân Cờ Vàng dưới sự chỉ huy của Đội Lựu. Sau khi Đội Lựu hy sinh, Cao Thắng lẩn trốn và được giáo thụ Phan Đình Thuật, anh trai Phan Đình Phùng, đưa về nuôi dưỡng. Sau khi ông Thuật qua đời vào năm 1881, Cao Thắng trở về quê làm ruộng. Năm 1884, ông bị vu cáo giết người, bị bắt và giam tại thành Hà Tĩnh. Đến năm 1885, khi Lê Ninh tấn công thành, ông được giải thoát.
Sau khi trở về, Cao Thắng cùng em trai Cao Nữu tập hợp dân binh khởi nghĩa, sau đó gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng. Ông được Phan Đình Phùng giao chức Quản Cơ khi mới 21 tuổi nhờ tài năng tổ chức và sự tin cậy từ quân sĩ. Năm 1887, khi Phan Đình Phùng ra Bắc để liên kết lực lượng, Cao Thắng được giao quyền chỉ huy nghĩa quân. Ông đã xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn dựa trên địa hình chiến lược của dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn, tạo thành thế trận vừa phòng thủ vừa tấn công hiệu quả, mở rộng địa bàn hoạt động từ Hà Tĩnh ra Nghệ An, Quảng Bình.
Không chỉ là một chỉ huy quân sự tài năng, Cao Thắng còn nổi tiếng với sáng chế quân sự. Ông tổ chức các lò rèn tại Trường Sim, huy động thợ thủ công từ Trung Lương, Vân Chàng và Xa Lang để chế tạo súng mô phỏng mẫu 1874 của Pháp, cung cấp hàng trăm khẩu súng và đạn dược cho nghĩa quân. Đại úy Pháp Goselin từng thừa nhận súng do Cao Thắng chế tạo giống hệt sản phẩm từ các xưởng quân khí của Pháp.
Dưới sự chỉ huy của Cao Thắng, căn cứ Hương Khê và Hương Sơn trở thành pháo đài vững chắc. Nghĩa quân liên tục giành thắng lợi trước các cuộc càn quét của địch ở Thanh Chương, Anh Sơn (Nghệ An) và nhiều nơi khác tại Hà Tĩnh từ năm 1889 đến 1892. Tuy nhiên, đến đầu năm 1893, trước áp lực ngày càng lớn từ quân Pháp, Cao Thắng đã đề xuất một kế hoạch táo bạo nhằm tấn công thẳng vào tỉnh thành Nghệ An để phá thế bao vây, khai thông đường tiến quân ra Bắc.
Cao Văn Lầu (1890-1976)
Cao Văn Lầu, tác giả của bản nhạc nổi tiếng *Dạ cổ hoài lang*, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1890 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ (nay thuộc xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An). Gia đình ông sống trong cảnh nghèo khó và phải di cư nhiều lần để tìm kế sinh nhai. Năm 1896, cha ông, ông Chín Giỏi (Cao Văn Giỏi), đưa cả gia đình xuống ghe rời quê hương, trải qua nhiều nơi như Gia Hội (Bạc Liêu), Xà Phiên (Hậu Giang), rồi định cư ở vùng Họng Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu). Tuy nhiên, cuộc sống vẫn bấp bênh, khiến gia đình phải sống bằng nghề làm thuê và câu cá để kiếm sống.
Thấy gia đình ông lâm cảnh khó khăn, hòa thượng Minh Bảo, trụ trì chùa Vĩnh Phước An, đã nhận nuôi Cao Văn Lầu từ năm ông 8 tuổi. Tại chùa, ông vừa học chữ Nho vừa tụng kinh. Đến năm 1903, ông được cha xin cho về nhà học chữ Quốc ngữ, nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học đến lớp 4 rồi nghỉ học để phụ giúp cha mẹ.
Năm 1908, Cao Văn Lầu bắt đầu học đàn với thầy Lê Tài Khí (Hai Khị), một nhạc sĩ khiếm thị nổi tiếng ở Rạch Ông Bổn. Dưới sự hướng dẫn của thầy, ông nhanh chóng tinh thông các nhạc cụ truyền thống như đàn tranh, đàn cò, đàn kìm và trống lễ, trở thành nhạc công chủ lực của ban cổ nhạc. Ông bắt đầu sáng tác và đi biểu diễn từ năm 1912, ghi dấu ấn với bản nhạc ngắn *Thu phong* (sau đổi thành *Mừng khi gặp bạn*).
Năm 1913, ông kết hôn với Trần Thị Tấn. Tuy nhiên, vào năm 1917, do vợ ông không có con sau ba năm chung sống, ông bị cha mẹ buộc phải trả vợ về nhà. Trong nỗi nhớ thương, ông sáng tác bản nhạc *Dạ cổ hoài lang* (ban đầu có 22 câu, sau rút gọn còn 20 câu nhịp đôi). Tác phẩm này được sáng tác trên cảm hứng từ tâm trạng người chinh phụ nhớ thương chinh phu, trở thành tiền thân của bản *vọng cổ* trong nghệ thuật cải lương.
Ngoài *Dạ cổ hoài lang*, từ năm 1918 đến 1974, Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản nhạc khác, chủ yếu lưu hành ở Bạc Liêu. Ông tham gia cách mạng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là thành viên của Mặt trận Liên Việt và từng thực hiện nhiệm vụ đặc biệt cứu cán bộ trong kháng chiến chống Pháp.
Cao Văn Lầu qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 86 tuổi (tuổi ta). Ông để lại di sản quan trọng, góp phần thay đổi diện mạo cải lương Nam Bộ và ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Cao Xuân Huy (1900-1983)
Cao Xuân Huy (1900–1983), một giáo sư, triết gia, và nhà nghiên cứu Hán học xuất sắc, có nguyên quán tại thôn Thịnh Mỹ (nay thuộc xã Cao Xá, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Ông là cháu nội cụ Cao Xuân Dục, một đại thần triều Nguyễn, và con trai của Cao Xuân Tiếu, một quan chức cấp cao triều Nguyễn.
Cuộc đời và sự nghiệp
Cao Xuân Huy sớm được giáo dục bài bản, bắt đầu học chữ Hán với thầy tại gia đình và ông nội. Năm 1915, ông thi Hương tại trường thi Nghệ An, sau đó học bậc Thành chung ở Huế và tốt nghiệp năm 1922. Tiếp tục, ông theo học trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, tốt nghiệp năm 1925 và bước vào sự nghiệp giáo dục kéo dài 55 năm.
Song song với việc dạy học, ông tham gia các phong trào yêu nước. Năm 1925, khi cụ Phan Bội Châu bị bắt, ông tích cực tham gia các cuộc đấu tranh đòi thả cụ. Năm 1926, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1927, sau khi Đảng bị thực dân Pháp trấn áp, ông bị bắt và đày đi Lao Bảo, rồi Nghệ An. Được thả năm 1929, ông chuyển vào dạy học tại Sài Gòn và các trường tư thục ở Huế.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Cao Xuân Huy được Chính phủ Lâm thời mời ra Hà Nội giảng dạy triết học phương Đông tại trường Đại học Việt Nam. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ông làm hiệu trưởng trường Nguyễn Xuân Ôn (Nghệ An) và tiếp tục giảng dạy tại các lớp đại học vùng Thanh – Nghệ. Năm 1949, ông trở thành giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên do Bộ Giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập.
Từ năm 1954, ông đảm nhiệm giảng dạy các môn triết học phương Đông, logic học, và tâm lý học tại Hà Nội, trở thành giáo sư chính thức vào năm 1958. Tuy nhiên, trong giai đoạn Nhân Văn – Giai Phẩm, ông bị đình chỉ công tác. Năm 1959, ông gia nhập Viện Văn học, giữ chức Trưởng Ban Hán Nôm và Trưởng Ban Văn học Cổ đại Việt Nam. Trong giai đoạn này, ông tiếp tục thỉnh giảng tại các trường đại học lớn và đào tạo nhiều thế hệ chuyên gia Hán Nôm.
Ông nghỉ hưu năm 1974 và qua đời ngày 22 tháng 10 năm 1983 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 83 tuổi.
Di sản và vinh danh
- Tác phẩm tiêu biểu: Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996, truy tặng).
- Huân chương Kháng chiến Hạng Nhì (1960).
- Tên ông được đặt cho các con đường tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, và Nghệ An.
Cao Xuân Huy là một trong những trí thức lỗi lạc của Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực triết học và Hán học, cũng như trong sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Cao Sĩ Kiêm (1941)
Ông sinh ngày 26 tháng 8 năm 1941 tại thôn Nam Long, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Huyện Vũ Thư được hình thành từ sự hợp nhất của hai huyện cũ là Thư Trì và Vũ Tiên.
Là một nhà kinh tế và chính khách Việt Nam, ông sở hữu bằng Tiến sĩ kinh tế và từng đảm nhiệm vị trí Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1997. Với vai trò này, ông đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia trong thời kỳ đổi mới.
Cao Thị Bảo Vân (1962)
Cao Thị Bảo Vân là một chuyên gia sinh học phân tử nổi bật. Sau khi tốt nghiệp Đại học Lomonosov (Liên bang Nga) chuyên ngành sinh học phân tử năm 1986, bà tiếp tục hoàn thành luận văn thạc sĩ tại Viện Pasteur Paris vào năm 1994, rồi làm nghiên cứu sinh tại đây và Trường Đại học Paris XI về cơ chế gen kháng thuốc của các tác nhân nhiễm trùng. Năm 2002, bà bảo vệ luận án tiến sĩ với hạng “tối danh dự”.
Bà hiện đang công tác tại Viện Pasteur TP.HCM, là Phó khoa vi sinh miễn dịch và trưởng phòng sinh học phân tử. Công trình nghiên cứu của bà về bộ gen virus cúm gà A/H5N1 lưu hành tại Việt Nam trong năm 2004-2005 có ý nghĩa đặc biệt trong việc phân tích sự tiến hóa di truyền của virus và giúp phát triển các phương pháp điều trị, vắc-xin hiệu quả. Bà cũng là người duy nhất đạt giải WIPO và giải Vifotec vào năm 2007.