Phả ký là một tài liệu quý giá, ghi lại lịch sử, nguồn gốc và những đóng góp của các thế hệ trong dòng họ Cao, một dòng họ có bề dày lịch sử lâu đời tại Việt Nam. Bên cạnh việc lưu giữ những truyền thống gia đình, phả ký còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dòng họ qua các thế hệ. Cùng HoCao.vn tìm hiểu về phả ký dòng họ Cao trong bài viết dưới đây.

Lịch sử dòng họ Cao

Dòng họ Cao trên mọi miền đất nước cũng như ở nước ngoài đều nhận danh tướng Cao Lỗ là tiền đại viễn tổ của dòng họ Cao ở Việt Nam.
Tính từ thủy tổ Cao Lỗ(? – 179 TCN) đến nay, dòng họ cao đã trải qua hơn 2300 năm với trên 90 đời. Các chi họ Cao đã phát triển thêm nhiều nhánh, với hàng vạn nhân khẩu định cư trên nhiều địa phương trong và ngoài nước.
Ngày nay, tại vùng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, vẫn còn nhiều dòng họ có nguồn gốc từ các quan lại thời An Dương Vương, bao gồm các họ như An, Âu, Bùi, Chu, Đỗ, Đào, Lại, Nguyễn, Phạm, Trương và nhiều họ khác. Điều này cho thấy, các dòng họ của người Việt đã có lịch sử ít nhất 2300 năm, bắt nguồn từ thời An Dương Vương.
Phả Ký Họ Cao Việt Nam
Phả Ký Họ Cao Việt Nam

Thành viên tiêu biểu trong dòng họ Cao

Cùng tìm hiểu chi tiết về những thành viên tiêu biểu trong dòng họ:

Cao Lỗ (? – 179 TCN)

Cao Lỗ còn được biết đến với cái tên khác gọi Đô Lỗ, Thạch Thần hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần, là một vị tướng tài ba dưới triều Thục Phán (An Dương Vương). Ông quê ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Đền thờ của tướng quân Cao Lỗ tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nơi người dân tổ chức lễ cúng để tưởng nhớ ông.
Cao Lỗ Vương
Cao Lỗ Vương

Cao Quýnh (1449 – 1535)

Cao Quýnh, người làng Phú Trung, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, nổi tiếng với tài học rộng và am hiểu nhiều lĩnh vực. Trong suốt cuộc đời làm quan, ông luôn chú trọng đến công việc triều chính, đề xuất các chính sách về lương thực, phát triển thủy lợi, qua đó góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Ông đỗ Đệ Nhất Giáp tiến sĩ vào năm 1475 dưới triều đại Lê Thánh Tông.
Khi qua đời, ông được an táng tại xứ Mã Tây, thôn Xuân Lôi, xã Diễn Thành, tỉnh Nghệ An. Vua Tự Đức vào năm 1857 (năm thứ X triều Tự Đức) đã ban sắc phong cho ông với danh hiệu Tuấn Lương Thần. Sau đó, vào năm 1904, vua Thành Thái đã phong ông với sắc phong ghi rõ: “Trác vĩ dục bảo trung hưng thượng đẳng thần”, đồng thời cho phép thôn Tú Mỹ, xã Hạnh Lâm, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An phụng thờ ông như một thần linh bảo vệ đất nước và dân chúng.
Nhà thờ Thám hoa Cao Quýnh hiện tọa lạc tại xóm 8, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, có hai tòa điện: hạ điện và thượng điện, trong đó trưng bày nhiều hiện vật quý. Long ngai và bài vị thờ ông có vị hiệu “Thần tổ hội nguyên đình tứ Thám hoa Đông các đại học sỹ, cao tặng tuấn lương tước phong Trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng tối linh tôn thần”. Tại nhà thờ còn có nhiều kỷ vật như lọng vàng, hai bức đại cổ sơn son thiếp vàng do Hội văn huyện Diễn Châu kính tặng, cùng các đồ vật như trống, chuông đồng và các đôi câu đối.
Gia phả của dòng họ Cao Quan Thám, hiện lưu giữ tại nhà ông Cao Hoa, tộc trưởng họ Cao, xóm 8, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, có ghi lại thông tin về ông. Sắc phong và bản dịch sắc phong của vua Thành Thái cũng được lưu giữ tại nhà thờ Thám hoa Cao Quýnh, nơi con cháu trong dòng họ vẫn duy trì truyền thống thờ cúng và tưởng nhớ công đức của ông.
Sách Khoa bảng Nghệ An ghi lại rằng Cao Quýnh, người xã Cao Xá (nay là xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu), thi Hương đậu giải Nguyên, và ở tuổi 37, ông đỗ Đệ Nhất Giáp, khoa Ất Mùi (Hồng Đức thứ VI, 1475) đời Lê Thánh Tông. Ban đầu, ông có tên là Lỗ (Cao Lỗ), nhưng được vua sửa thành tên Quýnh (Cao Quýnh) và được phong làm Đông các đại học sỹ.
Sắc phong của vua Thành Thái và các tài liệu liên quan hiện vẫn được bảo tồn tại nhà thờ của ông ở Diễn Thành, Diễn Châu.

Cao Dương Trạc (1690 – 1753)

Cao Dương Trạc, người quê ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo các tài liệu Cao Dương Thế Hệ Ký và *Cao Dương Hậu Phả Tập*, ông đỗ đồng Tiến sĩ vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), triều Lê Dụ Tông (1705-1729). Sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm quan Thượng thư Bộ Hộ, sau đó chuyển sang Bộ Lại.
Ngoài công việc chính trị, Cao Dương Trạc còn nổi bật với sự yêu thích văn học, thường xuyên được mời vào cung để tham gia bàn luận thơ phú. Năm Vĩnh Hựu (1735), ông được thăng chức Thượng thư Bộ Binh. Đến năm Bính Dần (1746), khi đã 56 tuổi, ông chuyển sang làm Thượng thư Bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ. Sau một thời gian đảm nhận chức vụ này, ông xin từ chức và ra làm Đốc đồng Thanh Hóa.
Khi qua đời, ông được triều đình tặng hàm Thiếu bảo, thể hiện sự kính trọng và đánh giá cao những cống hiến của ông trong suốt sự nghiệp.

Cao Huy Dật (1707 – 1749):

Cao Huy Dật, người quê ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo các tài liệu Cao Dương Thế Hệ Ký và *Cao Dương Hậu Phả Tập*, ông đậu Nho sinh trúng thức và được bổ nhiệm chức Phụng Thị Văn Nội Giảng. Cao Huy Dật là cháu ruột của Thượng thư Cao Dương Trạc, gọi ông là chú.
Vào năm 1747, ông được Thượng thư Cao Dương Trạc giao nhiệm vụ quan trọng là viết gia phả dòng họ Cao, công trình sau này được ghi lại trong Cao Dương Thế Hệ Ký và *Cao Dương Hậu Phả Tập*. Ông là con trai của Tả Bình Quan Cao Đức Doanh.

Cao Tư (1744 – 1818):

Cao Tư, sinh năm Giáp Tý (1744), mất năm Kỷ Mão (1818), thọ 75 tuổi, quê gốc tại Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay thuộc Hà Nội). Ông là quan võ dưới triều Lê trung hưng, và khi qua đời, được phong tước Thái Bảo Thọ Quận Công – Phó Quốc.
Tổ phụ của Cao Tư, cụ Cao Thụy Tín Mỹ, di cư từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp tại Thành Hóa. Trong suốt cuộc đời mình, Cao Tư đã cho di dời mộ tổ Cao Thụy Tín Mỹ từ Thanh Hóa về an táng tại thôn Công An, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông cũng đã tổ chức cho con cháu định cư tại đây và xây dựng nhà thờ để thờ cúng tổ tiên.
Hiện nay, cuốn Cao Tộc Phả Ký đang được ông Cao Thanh, trưởng chi họ Cao ở xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội), lưu giữ. Theo các tài liệu Cao Dương Thế Hệ Ký và *Cao Dương Hậu Phả Tập*, chi họ Cao ở Văn Giang là chi thứ, trong khi chi họ Cao ở Sủi, Phú Thị là chi trưởng, cả hai đều có nguồn gốc từ chi họ Cao ở Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Dòng họ Cao Tư ở Thanh Hóa nổi bật với 30 võ quan dưới triều Lê trung hưng. Nhận thức được những đóng góp lớn lao của ông, vào năm 2003, Sở Văn Hóa – Thông tin tỉnh Thanh Hóa đã cấp bằng công nhận Cao Tư là “Danh nhân văn hóa” của tỉnh, và một đền thờ ông đã được xây dựng tại thôn Hoằng Lộc, Hoằng Phúc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Cao Đình Độ (1741 – 1810) & con trai Cao Đình Hương:

Cao Đình Độ, người quê gốc tại Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay thuộc Hà Nội), là một nhân vật nổi bật trong lịch sử nghề kim hoàn Việt Nam. Tổ phụ của ông di cư từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
Cao Đình Độ và con trai, Cao Đình Hương, được coi là tổ sư của nghề kim hoàn ở miền Trung. Cao Đình Hương, người tiếp nối và phát triển nghề kim hoàn, đã truyền nghề rộng rãi trong dân gian. Ngày giỗ của ông, mùng 7 tháng 2 âm lịch, được cộng đồng thợ kim hoàn lấy làm ngày giỗ tổ hàng năm.
Di tích nhà thờ tổ nghề kim hoàn của gia đình Cao Đình Độ và Cao Đình Hương đã được công nhận là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 168-QĐ/VH, ngày 2/3/1990 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Đây là minh chứng cho sự đóng góp to lớn của hai cha con ông đối với nghề kim hoàn truyền thống của dân tộc.

Cao Hữu Dực (1799 – 1859):

Cao Hữu Dực, còn gọi là Cao Hữu Bằng hoặc Cao Hữu Phùng, quê gốc Thanh Hóa. Thủy tổ của dòng họ Cao Hữu là cụ Cao Mác, người làng Thế Chí Đông 1, xóm Chùa, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cao Hữu Dực đậu Hương Cống vào năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), theo ghi chép trong Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhị Kỷ, Quyển XXXIV. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ Binh, Tổng Đốc An-Hà (An Giang & Hà Tiên) thời Minh Mạng. Sau khi qua đời, ông được truy tặng danh hiệu Hiệp biện đại học sĩ. Con trai ông, Cao Hữu Sung, cũng làm quan đến chức Tuần phủ và là tác giả tuồng Nôm Địch Thanh 1918. Cháu nội của ông, Cao Hữu Lương, đỗ khoa thi Hương.
Cao Hữu Dực không chỉ nổi bật trong lĩnh vực quan trường mà còn được biết đến là một người có tài văn chương. Ông là người khai sinh ra các vở tuồng nổi tiếng như Ô ThướcTống Tử Vân. Theo báo Nông Cổ Mín Đàm, số 417, ngày 22 tháng 3 năm 1910 và các số sau đó, tuồng của ông được quảng cáo rộng rãi, trong đó có các vở tuồng Ô Thước, Ngũ Hổ Bình TâyTống Tử Vân. Có thể ông cũng là tác giả của vở tuồng Lý Thiên Long.

Cao Bá Quát (1809 – 1865):

Cao Bá Quát, theo Cao Dương Thế Hệ KýCao Dương Hậu Phả Tập, sinh tại làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Ông là con trai trưởng (chi Giáp Nhất) của cụ Cao Huy Tham (1784-1850), và là em song sinh của Cao Bá Đạt (1809-1855), nguyên Tri huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông nội của Cao Bá Quát là Cao Huy Thiềm (1761-1821).
Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), theo hồ sơ Quốc triều Hương khoa lục, quyển 01B, mặt khắc 77. Ông làm quan Giáo thụ phủ Quốc Oai, sau đó cáo quan về quê chăm sóc mẹ già 68 tuổi, theo ghi chép trong Châu Bản Triều Nguyễn. Cao Bá Quát nổi bật không chỉ là một nhà văn, nhà thơ mà còn là một nhà cách mạng, quốc sư của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (1854-1855) chống lại triều đình Nhà Nguyễn.

Cao Xuân Dục (1843 – 1923):

Cao Xuân Dục, tự Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao, quê gốc thôn Thịnh Mỹ (nay là Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1876, ông đỗ Cử nhân, đồng khoa với các nhân vật nổi bật như Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), Nguyễn Đôn Tiết (Thanh Hóa) và Phan Văn Ái (Hà Nội).
Cao Xuân Dục
Cao Xuân Dục
Tổ tiên của dòng họ Cao-Xuân có thể bắt nguồn từ ông Cao Quýnh, người sống dưới triều Lê Thánh Tông. Theo gia phả, Cao Quýnh đỗ cử nhân năm 27 tuổi, sau đó thi hội và đỗ hội nguyên trong kỳ thi Ất Mùi (1475). Ông thi đình và đỗ thám hoa, sau này làm quan đến chức Đông Các Đại Học Sĩ, đồng thời được khắc tên trong Văn Miếu, Hà Nội. Từ Cao Quýnh đến Cao Xuân Dục là khoảng 13 đời.

Cao Xuân Tiếu (1865 – 1939):

Cao Xuân Tiếu, quê ở làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là một quan lại nổi tiếng dưới triều Nguyễn. Ông đỗ cử nhân năm Tân Mão (1891), đứng thứ nhì trường Nghệ An, và đỗ Phó bảng vào năm Ất Mùi (1895), triều Thành Thái. Cao Xuân Tiếu là con trưởng của Cao Xuân Dục, Thượng thư Bộ Học, Đông các đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Ông lần lượt đảm nhận các chức vụ quan trọng, bao gồm án sát Quảng Nam, bố chính các tỉnh Bình Định, Hà Tĩnh, chủ khảo khoa thi hương trường Thanh Hóa, tham tri Bộ Lễ, Bộ Hộ, và cuối cùng thăng đến chức Thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Sau khi về hưu, ông còn là Chủ tịch Hội đồng quản trị Nông tín ngân hàng miền Bắc – Trung Kỳ.
Cao Xuân Tiếu mất năm Kỷ Mão (1939), thọ 74 tuổi. Con trai ông, Giáo sư Cao Xuân Huy, là một triết gia nổi tiếng, và cháu ông, Cao Xuân Hạo, là một dịch giả và nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.

Cao Thắng (1864 – 1893):

Cao Thắng, quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp cuối thế kỷ 19. Ông là một trụ cột quan trọng trong việc tổ chức, huấn luyện và chỉ huy nghĩa quân Cờ Vàng dưới sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng.
Ngay từ khi mới 10 tuổi (1874), Cao Thắng đã gia nhập đội nghĩa quân Lựu, làm liên lạc cho nghĩa quân. Sau khi đội Lựu bị tấn công, Cao Thắng trốn thoát và được Phan Đình Thuật (anh của Phan Đình Phùng) nuôi dưỡng. Năm 1881, khi Phan Đình Thuật qua đời, Cao Thắng trở về quê và làm ruộng. Tuy nhiên, năm 1884, ông bị bắt oan và bị giam ở thành Hà Tĩnh cho đến khi cuộc tấn công của Lê Ninh giải phóng ông vào năm 1885.
Về quê, Cao Thắng cùng em ruột là Cao Nữu chiêu mộ nghĩa quân, gia nhập đội quân của Phan Đình Phùng và nhanh chóng chứng tỏ tài năng chỉ huy. Mới 21 tuổi, ông được giao chức Quản Cơ và trở thành một tướng tài được quân sĩ rất tin tưởng.
Cao Thắng cũng là một nhà quân sự mưu lược, sáng chế ra phương pháp chế tạo súng giống súng 1874 của Pháp. Ông tập hợp thợ rèn Trung Lương, Vân Chàng, và thợ mộc Xa Lang về Trường Sim để đúc súng và sản xuất đạn dược cho nghĩa quân. Những khẩu súng do ông chế tạo được đánh giá rất cao, đến mức Đại úy Pháp Goselin phải thừa nhận chúng khi đưa về Pháp.
Trong giai đoạn 1887-1889, dưới sự chỉ huy của Cao Thắng, nghĩa quân Hương Khê, Hương Sơn củng cố một hệ thống đồn lũy vững chắc dựa vào dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn. Các căn cứ này tạo thành một thế trận liên hoàn có thể ứng cứu nhanh chóng. Cao Thắng cũng là người đứng đầu trong việc phát triển các căn cứ quân sự và pháo đài, làm bàn đạp để mở rộng phạm vi chiến đấu, chống lại quân Pháp ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Đến năm 1893, sau khi quân Pháp dẹp xong các khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, chúng đã tập trung lực lượng bao vây nghĩa quân của Cao Thắng. Tuy nhiên, ông đã đề xuất một kế hoạch táo bạo tấn công vào tỉnh thành Nghệ An, nhằm phá vỡ vòng vây của địch và tạo điều kiện để mở rộng chiến trường ra Bắc. Tuy nhiên, Cao Thắng đã hy sinh trong những tháng cuối cùng của cuộc khởi nghĩa vào năm 1893.
Cao Thắng là một tướng tài kiệt xuất, vừa có tài quân sự lão luyện, vừa có tầm nhìn chiến lược sâu rộng. Ông xứng đáng là một trong những anh hùng của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp.

Cao Văn Lầu (1890-1976):

Cao Văn Lầu, tác giả của bản Dạ Cổ Hoài Lang nổi tiếng, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1890 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau này thuộc xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Từ nhỏ, ông đã phải trải qua nhiều khó khăn. Khi Cao Văn Lầu 16 tuổi (năm 1896), gia đình ông gặp khó khăn về kinh tế và bị áp bức, do đó, thân phụ ông là Chín Giỏi (Cao Văn Giỏi) đã quyết định di cư cùng vợ và sáu đứa con nhỏ đến Bạc Liêu để tìm cơ hội mới.
Cao Văn Lầu
Cao Văn Lầu
Cuộc sống ban đầu ở Bạc Liêu rất gian nan. Sau khi bị chiếm mất đất khẩn hoang, gia đình ông phải sống trong cảnh thiếu thốn, làm thuê và đi câu cá để kiếm sống. Thương cảnh nghèo đói, Hòa thượng Minh Bảo, trụ trì chùa Vĩnh Phước An, đã nhận Cao Văn Lầu vào chùa ở và dạy chữ Nho cho ông khi ông mới 8 tuổi. Đến năm 1903, Cao Văn Lầu trở về nhà và tiếp tục học chữ Quốc ngữ, nhưng vì gia đình gặp nhiều khó khăn, ông phải thôi học sau khi học xong lớp 4.
Khi 17 tuổi (1907), Cao Văn Lầu thay cha mẹ chăm lo gia đình. Trong thời gian này, ông đã gặp và học hỏi từ thầy đàn nổi tiếng Lê Tài Khí (hay còn gọi là Hai Khị). Thầy Hai Khị, mặc dù mù và bị tật ở chân, nhưng sở hữu tài năng đàn điêu luyện. Cao Văn Lầu học đàn tranh, đàn cò, đàn kìm, trống lễ, và nhanh chóng trở thành một nhạc sĩ tài ba trong ban cổ nhạc của thầy.
Năm 1912, Cao Văn Lầu bắt đầu tham gia hát trong các gánh hát, cùng với những người bạn như Sáu Thìn và cô Phấn, thể hiện những tác phẩm như *Tứ Đại Oán*. Sau đó, vào năm 1913, ông cưới vợ là cô Trần Thị Tấn (1899-1967), và trong thời gian này, ông sáng tác một bài nhạc ngắn mang tên *Bá Điểu*, sau đổi thành *Thu Phong*. Bản nhạc này sau này được Trịnh Thiên Tư thêm lời ca và mang tên *Mừng khi gặp bạn*.
Vào năm 1917, Cao Văn Lầu sáng tác một khúc nhạc dài 22 câu, lấy cảm hứng từ chủ đề *Chinh Phụ Vọng Chinh Phu*, nhưng sau khi gặp một biến cố gia đình khi vợ ông không thể có con, ông phải điều chỉnh lại tác phẩm. Dưới sự góp ý của bạn bè, bài nhạc này được chỉnh sửa thành một tác phẩm mới với 20 câu nhịp đôi.
Năm 1919, Cao Văn Lầu gia nhập gánh hát cải lương Ba Xú ở Bạc Liêu, nơi ông làm nhạc công và tiếp tục sáng tác. Tên tuổi của ông gắn liền với bản *Dạ Cổ Hoài Lang*, được ông sáng tác vào năm 1918. Bản nhạc này sau này phát triển thành *Vọng Cổ*, tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cải lương, làm thay đổi bộ mặt của thể loại này. Ngoài *Dạ Cổ Hoài Lang*, ông còn sáng tác hơn 10 bản khác, phần lớn chỉ phổ biến ở Bạc Liêu.
Trong suốt cuộc đời, Cao Văn Lầu không chỉ là một nhạc sĩ tài ba mà còn tham gia hoạt động cách mạng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông gia nhập Mặt trận Liên Việt tại ấp Vĩnh Phước, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947, ông được giao một nhiệm vụ đặc biệt và đã thành công cứu thoát một số cán bộ cách mạng bị thực dân Pháp bắt.
Cao Văn Lầu qua đời vào lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 86 tuổi (tuổi ta). Ông đã để lại một di sản âm nhạc vô cùng quý giá, đặc biệt là bản *Dạ Cổ Hoài Lang*, một tác phẩm bất hủ trong kho tàng âm nhạc dân tộc Việt Nam.

Cao Sĩ Kiêm (1941 – Nay):

Cao Sĩ Kiêm sinh ngày 26 tháng 8 năm 1941 tại thôn Nam Long, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông là một nhà kinh tế và chính khách Việt Nam, nổi bật trong sự nghiệp công tác của mình, đặc biệt là với vai trò Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1989 đến 1997.
Cao Sĩ Kiêm
Cao Sĩ Kiêm

Quá trình công tác:

  • 1960: Bắt đầu sự nghiệp tại Ngân hàng tỉnh Bắc Cạn.
  • 1965: Làm cán bộ ngân hàng tỉnh Thái Bình, sau đó được bổ nhiệm làm Phó giám đốc, rồi Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Thái Bình.
  • 1985: Bí thư Huyện ủy Thái Thụy, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình.
  • 1986: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI.
  • 1989: Được bổ nhiệm làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đất nước chuyển sang cơ chế đổi mới.
  • 1997: Từ nhiệm chức vụ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, người tạm thay ông là ông Đỗ Quế Lượng.
  • 1991-2001: Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII và VIII.
  • 2007: Được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII.

Các vị trí hiện nay:

Mặc dù đã về hưu, Cao Sĩ Kiêm hiện nay vẫn giữ nhiều chức vụ quan trọng:
  • Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
  • Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
  • Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME).
  • Thành viên trong Hội đồng Khoa học của trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp Việt Nam (CBAM).
  • Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Đông Á.

Các danh hiệu và huân chương:

Trong suốt sự nghiệp, ông Cao Sĩ Kiêm đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều huân chương và huy chương:
  • Huân chương Độc lập hạng Nhì.
  • Huân chương Lao động hạng Nhất.
  • 8 Huy chương của các bộ, ban, ngành Trung ương.
  • Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì.

Cao Đức Phát (1956 – Nay):

Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sinh năm 1956 tại xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông là một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, với nền tảng học vấn vững chắc và quá trình công tác đa dạng.
Cao Đức Phát
Cao Đức Phát
Quá trình công tác:
  • 1982-1991: Công tác tại Viện Quy hoạch – Thiết kế Nông nghiệp.
  • 1992-1995: Học thạc sĩ quản lý hành chính công tại Đại học Harvard (Mỹ).
  • 1995-1999: Đảm nhiệm chức vụ vụ trưởng Vụ Chính sách, Vụ Kế hoạch – Tài chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
  • 1999-2003: Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
  • 2003-2004: Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy An Giang.
  • 2004: Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
  • 2004- Nay: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Cao Đức Phát là người có công lớn trong công tác phát triển nông nghiệp Việt Nam, đưa ra nhiều chính sách quan trọng để thúc đẩy nền nông nghiệp bền vững và phát triển.

Cao Thị Bảo Vân (1962 – Nay):

Cao Thị Bảo Vân, sinh năm 1962, là một nhà nghiên cứu khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực sinh học phân tử. Bà tốt nghiệp Đại học Lomonosov (Liên bang Nga) vào năm 1986 chuyên ngành sinh học phân tử, và là người duy nhất nhận giải WIPO và giải Vifotec vào năm 2007.
Cao Thị Bảo Vân
Cao Thị Bảo Vân
Năm 1994, bà hoàn thành luận văn thạc sĩ tại Viện Pasteur Paris, sau đó tiếp tục nghiên cứu tại Viện Pasteur và Trường Đại học Paris XI về cơ chế gen kháng thuốc của các tác nhân nhiễm trùng. Năm 2002, bà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với hạng “tối danh dự.”
Hiện nay, Cao Thị Bảo Vân là Phó khoa Vi sinh Miễn dịch tại Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là trưởng phòng Sinh học phân tử tại Viện này.

Ý Nghĩa và Tầm Quan Trọng của Phả Ký

Phả ký, hay còn gọi là gia phả, là một tài liệu quan trọng ghi lại nguồn gốc, lịch sử và sự phát triển của một dòng họ, gia tộc qua các thế hệ. Nó không chỉ là nơi lưu giữ thông tin về các thành viên trong gia đình mà còn phản ánh những giá trị văn hóa, truyền thống đặc sắc của một cộng đồng.

Phả Ký Trong Việc Gìn Giữ Lịch Sử Gia Tộc

Phả ký không chỉ có giá trị trong việc ghi nhận các mốc thời gian, mà còn giúp thế hệ sau hiểu rõ hơn về nguồn gốc của mình, về cha ông đã đi qua những giai đoạn nào trong lịch sử. Nhờ có phả ký, con cháu có thể biết được truyền thống, văn hóa của gia đình, từ đó tự hào và duy trì những giá trị ấy.

Phả Ký Trong Việc Bảo Tồn Văn Hóa Dân Tộc

Phả ký là một phần không thể thiếu trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc. Mỗi gia tộc đều có những nét riêng biệt trong truyền thống, phong tục tập quán. Khi được ghi lại trong phả ký, những giá trị này không chỉ giúp dòng họ phát triển bền vững mà còn góp phần vào sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa dân tộc. Thông qua việc lưu giữ phả ký, chúng ta có thể hiểu hơn về quá khứ, giữ gìn những gì tốt đẹp để truyền lại cho thế hệ sau.

Vai Trò Của Phả Ký Trong Xã Hội Hiện Đại

Phả ký không chỉ có giá trị trong việc ghi chép lịch sử gia tộc mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa, duy trì truyền thống gia đình và kết nối các thế hệ trong xã hội hiện đại. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, khi sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và toàn cầu hóa đang tác động mạnh mẽ đến mỗi cá nhân và cộng đồng, phả ký tiếp tục giữ vai trò quan trọng, giúp duy trì sự kết nối, bảo vệ giá trị văn hóa và tạo nền tảng vững chắc cho tương lai.
Thông qua việc tìm hiểu và lập phả ký, chúng ta không chỉ hiểu hơn về tổ tiên, mà còn có thể học hỏi, phát triển và truyền lại những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ sau này.